Nhằm hướng tới quan hệ lao động hài hoà, ổn định giữa người lao động và người sử dụng lao động, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân, người lao động cần phải biết các quy định về quyền và nghĩa vụ mà người lao động, người sử dụng lao động phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động, người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Người lao động là các cá nhân trực tiếp tham gia vào quá trình lao động, có thể là làm việc bằng sức lao động hay là lao động trí óc, thông qua hành vi lao động trên thực tế mà được trả lương, làm việc dưới sự quản lý của người sử dụng lao động. Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp dành cho lao động chưa thành niên quy định tại Mục 1 Chương XI Bộ luật Lao động.
Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quan hệ lao động bao gồm quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao động tập thể được quy định tại khoản 5 Điều 3 Bộ luật Lao động.
Việc xây dựng quan hệ lao động được quy định tại Điều 7 Bộ luật Lao động là quan hệ lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và người lao động, tổ chức đại diện người lao động xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định với sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công đoàn tham gia cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định; giám sát việc thi hành quy định của pháp luật về lao động; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Khi người lao động có kiến thức pháp luật, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động được pháp luật quy định như thế nào, người lao động biết tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân.
Quyền của người lao động được pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 35 Hiến pháp 2013: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” và quyền của người lao động luôn được xem là một bộ phận quan trọng cấu tạo nên hệ thống các quyền con người nói chung. Theo quy định của Bộ luật Lao động, người lao động có các quyền: “ Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể. Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động. Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong quá trình thực hiện công việc. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Đình công. Các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Song song với quyền, người lao động có nghĩa vụ “Thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và thỏa thuận hợp pháp khác. Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động, tuân theo sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động” được quy định tại khoản 2 Điều 5 của Bộ luật Lao động.
Việc một trong hai bên hoặc cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động vì lý do nào đó thôi không tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký kết cùng nhau phải thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động. Việc chấm dứt hợp đồng xuất phát từ hai phía nhưng phải thuộc các trường hợp quy định tại Điều 34 Bộ luật Lao động. Pháp luật luôn ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người lao động khi người lao động thực hiện chấm dứt hợp đồng đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng quy định, người lao động được hưởng các quyền lợi như: Được xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội; được hưởng trợ cấp mất việc và trợ cấp thôi việc; được thanh toán khoản tiền liên quan.
Bên cạnh các quyền dành cho người lao động quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động, quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động cũng được pháp luật quy định tại Điều 35 Bộ luật Lao động cho phép người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tuy nhiên phải tuân thủ quy định báo trước hoặc được phép không báo trước cho người sử dụng lao động biết.
Trong lĩnh vực lao động, dù là người lao động hay người sử dụng lao động thì cũng đều không được thực hiện một số hành vi bị coi là trái quy định pháp luật lao động nói riêng và pháp luật nói chung. Tại Điều 8 Bộ luật lao động quy định 07 hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động: Phân biệt đối xử trong lao động; Ngược đãi người lao động, cưỡng bức lao động; Quấy rối tình dục nơi làm việc; Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật; Sử dụng lao động chưa qua đào tạo hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo hoặc phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; Lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo gian dối hoặc thủ đoạn khác để lừa gạt người lao động hoặc để tuyển dụng người lao động với mục đích mua bán người, bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc lợi dụng dịch vụ việc làm, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để thực hiện hành vi trái pháp luật; Sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật. Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực lao động đều là các hành vi làm ảnh hưởng lớn đến quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 17 Bộ luật Lao động thì hành vi người sử dụng lao động không được thực hiện khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động như: Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động. Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động. Như vậy, ta có thể thấy rằng trên thực tế, các biểu hiện của hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động diễn ra hết sức đa dạng và khó kiểm soát.
Quan hệ lao động ngày càng trở nên quen thuộc và phổ biến trong xã hội hiện nay. Quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động là một quan hệ được pháp luật công nhận, được xác lập, thực hiện, duy trì và chấm dứt trên cơ sở các quy định của pháp luật về lao động. Khi xác lập quan hệ lao động, cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận trong khuôn khổ quy định pháp luật và không vi phạm vào điều cấm. Khi người lao động có kiến thức pháp luật, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình phải thực hiện cũng như được hưởng theo quy định của pháp luật để hướng tới xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định giữa người lao động và người sử dụng lao động./.
Phạm Thị Phương Nhung - Phòng Lao động - Tiền lương - Bảo hiểm xã hội